Chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử là gì? Khái niệm, vai trò và mục tiêu của Chính phủ điện tử?
Chính phủ điện tử là gì? Mục tiêu của Chính phủ điện tử? Ưu điểm và nhược điểm của chính phủ điện tử? Vai trò của Chính phủ điện tử với phát triển kinh tế số ở Việt Nam?
1. Chính phủ điện tử là gì?
Chính phủ điện tử (Electronic government – e-gov) hiện nay còn được hiểu theo nhiều nghĩa, điều đó phụ thuộc vào mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý công, khả năng ưu tiên về chính sách, và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của từng chính phủ cụ thể. Theo nghĩa rộng thì e-gov là việc sử dụng Internet (online-trực tuyến) trong các hoạt động tương tác giữa chính phủ với các bộ phận khác nhau trong xã hội hoặc chỉ đơn giản là nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của nhân viên hành chính thuộc bộ máy công. Theo nghĩa cụ thể hơn thì “Chính phủ điện tử là việc sử dụng công nghệ thông tin, mà đặc biệt là Internet, như là một công cụ để hỗ trợ nhằm đạt đến một chính phủ hoạt động hiệu quả nhất”.
Sự ra đời của chính phủ điện tử là một cuộc cách mạng trong tiến trình phát triển hành chính công. Chính phủ điện tử sẽ làm thay đổi phương thức sản xuất và cung ứng dịch vụ công nhằm phục vụ người dân tốt hơn. Chính phủ điện tử cũng đặt ra những thách thức lớn hơn bao giờ hết, đặc biệt là sự biến đổi không ngừng với tốc độ nhanh về công nghệ khiến các dự án công nghệ trong khu vực công luôn đứng trước nguy cơ lạc hậu.
Nhìn chung, các khái niệm về chính phủ điện tử đều coi đó là việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ thông tin vào điều hành của chính phủ và tương tác của chính phủ đối với các thành tố khác trong xã hội như công dân, doanh nghiệp… nhằm phân phối dịch vụ trực tiếp tới khách hàng không giới hạn thời gian. Có thể rút ra một số đặc điểm chung về chính phủ điện tử như sau: Chính phủ điện tử là chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để tự động hóa và triển khai các thủ tục hành chính. Chính phủ điện tử cho phép công dân có thể truy cập các thủ tục hành chính thông qua các phương tiện điện tử như internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác… Chính phủ điện tử là chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần, 365 ngày mỗi năm và người dân có thể thụ hưởng các dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu.
2. Mục tiêu của Chính phủ điện tử:
2.1. Các mục tiêu của CPĐT:
Mục tiêu chung là tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước của chính phủ, mang lại thuận lợi cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch (transparency), giảm chi tiêu chính phủ. Mục tiêu cụ thể là:
– Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Chính phủ và các cơ quan chính quyền các cấp (trao đổi văn bản điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử …)
– Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công tạo điều kiện cho nguời dân dễ dàng truy nhập ở khắp mọi nơi
– Người dân có thể tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp, quá trình điều hành của chính phủ một cách tích cực.
– Giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ
– Thực hiện một chính phủ hiện đại, hiệu quả và minh bạch
Chính phủ điện tử sẽ tạo ra phong cách lãnh dạo mới, phương thức mới, cung cấp dịch vụ cho người dân và nâng cao được năng lực quản lý điều hành đất nước.
Do vậy mà trong thời gian qua, các nước đều cố gắng đầu tư xây dựng CPĐT. Xây dựng CPĐT ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, nó là một phần quan trọng trong tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia.
Những khó khăn, trở ngại trong quá trình xây dựng CPĐT tại Việt Nam còn rất nhiều:
– Bất cập từ các dự án CNTT -Cơ sỏ hạ tầng CNTT – TT còn yếu kém.
– Trình độ dân trí thấp
– Trình độ nhận thức và kỹ năng của cán bộ viên chức bị hạn chế
– Quy trình nghiệp vụ chưa ổn định (đang trong quá trình cải cách).
2.2. Lợi ích của CPĐT:
CPĐT là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đúng lúc cho việc ra quyết định. CPĐT lý tưởng là một chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là lợi thế lớn nhất của CNTT.
CPĐT sử dụng CNTT để tự động hoá các thủ tục hành chính của chính phủ, áp dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt động của chính phủ do vậy tốc độ xử lý các thủ tục hành chính nhanh hơn rất nhiều lần.
CPĐT cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục hành chính nà thông qua phương tiện điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác.
CPĐT giúp cho các doanh nghiệp làm việc với chính phủ một cách dễ dàng bởi mọi thủ tục đều được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thông tin kinh tế mà chính phủ có đều được cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn.
Đối với công chức, CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn, có khả năng dáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
3. Ưu điểm và nhược điểm của chính phủ điện tử:
– Ưu điểm
Những ưu điểm chính của chính phủ điện tử bao gồm tăng tính hiệu quả, cải thiện dịch vụ, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ công và tính minh bạch, trách nhiệm cao hơn:
- Tăng độ minh bạch của chính phủ vì người dân sẽ được thông báo về những hoạt động mà chính phủ đang thực hiện cũng như những chính sách mà họ đề ra.
- Cải thiện được hiệu quả so với hệ thống hành chính làm việc trên bàn giấy, giúp tiết kiệm thời gian, đồng thời rút gọn khoảng cách giao tiếp giữa chính phủ và doanh nghiệp
- Giảm được phần chi phí dành cho việc phục vụ các hoạt động của công chức và mua sắm công.
- Cho phép người dân có thể truy cập và thu thập thông tin liên quan đến bất kỳ bộ phận nào của chính phủ và người dân có quyền tham gia vào quá trình ra quyết định của chính phủ.
– Nhược điểm
- Thời gian: để xây dựng được chính phủ điện tử cần đồng bộ hóađược các bộ phận hành chính với nhiều thủ tục khác nhau, nhiều hoạt động khác nhau. Điều này dẫn tới việc sẽ mất một thời gian dài để có thể hoàn thành,
- Bảo mật: Việc lưu trữ dữ liệu cá nhân của công dân có thể bị xem là kiểm soát quyền riêng tư hoặc lạm dụng cho những mục đích khác. Còn có nguy cơ việc dữ liệu bị mất cắp, hoặc bị rò rỉ thông tin hoặc bị bán, sử dụng cho các mục đích thương mại.
- Chi phí: Tốn nhiều chi phí để có thể hoàn thành được chính phủ điện tử. Và còn có các chi phí tiếp tục phát sinh như chi phí dùng để bảo trì, nâng cấp trang web. Đồng thời cũng phải trả một khoản phí lớn để bảo vệ được quyền riêng tư, tránh bị hack dữ liệu.
- Chế độ chính trị tùy vào các chế độ chính trị khác nhau mà sẽ có nhiều vấn đề phát sinh liên quan, ví dụ với các nước theo chế độ xem trọng quyền tự do và riêng tư của người dân thì việc nắm giữ thông tin cá nhân của người dân sẽ bị nhiều sự phản đối.
- Với những nước còn nghèo, chưa phổ cập internet toàn dân thì sẽ có những bộ phận người dân không thể tiếp cận được chính phủ điện tử, họ là những người có thể bị cập nhật thông tin chậm trễ, chính phủ không tiếp cận được nhóm đối tượng này thông qua chính phủ điện tử.
4. Vai trò của Chính phủ điện tử với phát triển kinh tế số ở Việt Nam:
Ngày nay, công cuộc toàn cầu hóa đang kéo các quốc gia trên thế giới lại gần nhau hơn, nhưng cùng với đó tính cạnh tranh cũng cao hơn. Trong bối cảnh đó, các chính phủ phải tìm cách giúp đỡ công dân và doanh nghiệp cạnh tranh trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế số. Nếu vẫn tồn tại dưới hình thức truyền thống, Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của mình. Việc Chính phủ điện tử ra đời được xem là giải pháp tất yếu, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế số trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0. Vai trò của Chính phủ điện tử đối với phát triển kinh tế số tại Việt Nam được thể hiện rõ ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý minh bạch cho quá trình phát triển kinh tế số.
Trong những năm gần đây, nhờ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong xây dựng Chính phủ điện tử, các văn bản, chính sách về phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển kinh tế số nói riêng đã được cập nhật, ban hành kịp thời, nhanh chóng, góp phần vào hiệu quả tổ chức và triển khai trên thực tiễn. Đây là bước chuyển biến tích cực, hiệu quả rõ rệt so với các hình thức soạn thảo, ban hành và phổ biến pháp luật, chính sách theo các phương thức truyền thống trước đây.
Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp công nghệ, với các Bộ, ban, ngành và địa phương, hiện nay hệ thống trục liên thông văn bản quốc gia đã được triển khai hiệu quả. Trục liên thông văn bản quốc gia là nền tảng cốt lõi, bảo đảm xây dựng thành công Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số; hướng tới phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Hiện đã có 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương (gồm Văn phòng Trung ương Đảng; các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đã hoàn thành kết nối các hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên Trục liên thông văn bản quốc gia. Các phần mềm quản lý văn bản của các Bộ, ngành, địa phương đã được kết nối, liên thông cả theo chiều dọc và chiều ngang một cách thông suốt và có tính hệ thống, văn bản điện tử được gửi, nhận nhanh chóng, an toàn giữa các cơ quan nhà nước.
Theo đánh giá của Văn phòng Chính phủ, trục liên thông văn bản quốc gia giúp Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương rút ngắn thời gian gửi, nhận văn bản từ 3 ngày xuống còn 3 phút; tiết kiệm 1.200 tỷ đồng chi phí; hàng chục triệu giờ công so với việc gửi văn bản thủ công trước đây. Đồng thời, góp phần thay đổi tác phong làm việc và đổi mới phương thức phục vụ của cán bộ công chức.
Cũng nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong chính phủ điện tử, hoạt động quản lý ban hành và phổ biến pháp luật chính sách nói chung và các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế số nói riêng được triển khai kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả và được cộng đồng doanh nghiệp, người dân hưởng ứng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, xét về nội dung chính sách phát triển kinh tế số, khách quan nhìn nhận có thể thấy rằng, các chính sách và cơ chế quản lý chưa theo kip sự phát triển của các mô hình kinh doanh mới, nhất là các mô hình dựa trên công nghệ số. Kinh tế số có đặc thù là dựa trên nền tảng công nghệ, nền tảng Internet với tốc độ phát triển và thay đổi vô cùng nhanh chóng. Trong khi đó, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi trong xã hội lại cần thời gian để nghiệm chứng nên không thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ.
Do đó, hoàn thiện, liên thông hệ thống chính sách, phát luật về kinh tế số là rất quan trọng nhằm tạo môi trường thông thoáng, có tính khuyến khích cho việc sáng tạo, ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh – thương mại. Đồng thời, vẫn cần có sự theo dõi giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước để ngăn chặn các hình thức biến tướng của công nghệ có thể gây hại cho môi trường kinh doanh cũng như lợi ích cộng đồng.
Thứ hai, hỗ trợ đẩy nhanh quá trình xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng của cho phát triển nền kinh tế số.
Quá trình xây dựng chính phủ điện tử cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước tăng cường đầu tư về các yếu tố liên quan đến hạ tầng công nghệ, kỹ thuật. Điều này không chỉ trực tiếp xây dựng chính phủ điện tử mà còn góp phần tạo dựng các điều kiện thuận lợi để triển khai đồng bộ hạ tầng kỹ thuật cho nền kinh tế số. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ và xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ trên nhiều phương diện như hạ tầng viễn thông, internet; hạ tầng thanh toán (digital payment); hạ tầng chuyển phát nhanh; và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn còn những hạn chế và chưa được như kỳ vọng, cụ thể:
- Về hạ tầng viễn thông, internet: Mặc dù có lợi thế tỷ lệ dùng internet, điện thoại, điện thoại thông minh khá cao, tuy nhiên, để phát triển kinh tế số đồng bộ khắp cả nước, hạ tầng viễn thông, internet của Việt Nam cũng vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu như: Tỷ lệ dân thành thị còn thấp 35%, độ phủ sóng mạng 4G rất thấp so với khu vực, chỉ 3%. Cần phát triển mạnh độ phủ sóng mạng 3G/4G, cũng như mạng băng rộng di động mặt đất. Ngoài ra, chi phí cho băng rộng di động còn rất cao, nằm trong top cuối của các nước.
- Về hạ tầng thanh toán (digital payment): Đây là một trong những hạn chế lớn trong phát triển kinh tế số hiện nay. Tỷ lệ thanh toán điện tử tại Việt Nam còn rất thấp, tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng là 40%. Tuy nhiên, trong đó chỉ có 22% các tài khoản là hoạt động, khoảng 15% người dùng có ví điện tử, và chỉ dưới 5% dùng tài khoản để trả các phí dịch vụ, tỷ lệ thanh toán online cũng chỉ chiếm khoảng 10%, gần 90% phương thức thanh toán khi mua hàng điện tử vẫn là hình thức thanh toán tiền mặt khi nhận hàng.
- Về hạ tầng chuyển phát (Fulfilment of last mile delivery): Thương mại điện tử phát triển dẫn đến nhu cầu cao về dịch vụ chuyển phát, đặc biệt chuyển phát cần nhanh và chi phí thấp. Ngoài ra, logistics cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế số, quy trình cung ứng hàng hóa cần phát triển đáp ứng mức độ tự động hóa của các dây chuyền. Tuy nhiên, giống như các nước Đông Nam Á hiện nay, hạ tầng vận chuyển chặng cuối cũng như hạ tầng logistics nói chung của Việt Nam vẫn còn chưa phát triển mạnh. Theo khảo sát của UPU (2017), chỉ số phát triển dịch vụ vận chuyển (2IPD) của Việt Nam còn thấp, chiếm khoảng 47.8% (trong khi trung bình khu vực ĐNA là 38.9%, trung bình các nước phát triển là 67.8%). Trong đó, hạ tầng, chất lượng vận chuyển, thời gian vận chuyển, thủ tục thông quan, chi phí, các dịch vụ theo dõi đơn hàng và truy vết vẫn chưa thực sự phát triển đồng bộ và còn bộc lộ nhiều hạn chế. Theo khảo sát của Cục Thương mại điện tử và Kỹ thuật số năm 2017, 40% khách hàng mua hàng trực tuyến chưa hài lòng về việc vận chuyển, giao hàng
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực số, chuẩn bị sẵn sàng nền kinh tế số.
Mỗi một nền kinh tế đòi hỏi cần phải có một lực lượng sản xuất tương ứng về trình độ của nó, đặc biệt là nguồn nhân lực. Vì vậy, tương ứng với nền kinh tế số phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nó. Cho nên, có thể hiểu, nguồn nhân lực số là tổng thể số lượng, chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức – tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và nền kinh tế số đang và sẽ cần để huy động vào quá trình lao động, sáng tạo. Để xây dựng được nguồn nhân lực số, vai trò của Chính phủ điện tử là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, Chính phủ đóng vai trò dẫn dắt, tạo cơ chế, môi trường thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số của toàn xã hội, làm xuất hiện xã hội số.
Bản chất của nền kinh tế số là nền kinh tế dựa trên ứng dụng các công nghệ số, nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng tri thức, ở đó vai trò của tri thức được coi là tài nguyên cho sự phát triển của nền kinh tế. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực số phải là nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chắc về chuyên môn, vững về đạo đức, có năng lực làm chủ công nghệ, có tính sáng tạo và đặc biệt là phải có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác của các hoạt động kinh tế.
Theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam, trong lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông, Việt Nam hiện có gần 900.000 lao động, trong đó có một số lượng lớn kỹ sư về AI (trí tuệ nhân tạo), IoT (Internet kế nối vạn vật) khoa học dữ liệu, số người được cấp chứng chỉ lớn[3]. Tuy nhiên, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) những năm gần đây, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn xếp hạng thấp đến trung bình khá về chất lượng, nhất là lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong nền kinh tế số khi so sánh với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn có khoảng cách xa so với yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế số tại Việt Nam.
Trong khi đó, nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, gần 1/3 số nghề mới hiện nay không tồn tại cách đây 1/4 thế kỷ, và sau 1/4 thế kỷ nữa sẽ có 60% số nghề chưa xuất hiện bây giờ. Vì vậy, cùng với việc thay đổi chương trình đào tạo theo kịp các xu thế công nghệ mới, đẩy nhanh việc xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin bằng việc tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này thì cũng rất cần thay đổi giáo dục theo hướng tăng tính tự học, tự cập nhật và học suốt đời. Do vậy, Chính phủ Việt Nam cần quan tâm đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực số để chuẩn bị và kịp thời thích ứng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế số. Theo đó, chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa, giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật (IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.
Thứ tư, đẩy nhanh việc số hoá các thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ công, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường số giữa Chính phủ với các doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng đang tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử, nhằm thu lợi nhuận tối đa. Thông qua việc áp dụng CNTT và viễn thông, các doanh nghiệp này có thể giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ, từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn. Do đó, nếu Chính phủ – nơi cung cấp dịch vụ – vẫn sử dụng các phương tiện truyền thống thì sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Nhận thức rõ điều đó, trong những năm gần đây, Chính phủ điện tử ở Việt Nam cũng đã có những đổi mới theo hướng cung cấp ngày càng nhiều hơn các dịch vụ công trực tuyến một cách nhanh chóng, tiện lợi.
Trong năm 2019, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đã tăng gấp đôi. Tất cả các Bộ, ngành, địa phương đã kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia, 86,5% số văn bản điện tử trao đổi qua mạng, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm,… Đáng chú ý, từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ nhấn nút khai trương (ngày 09/12/2019) đến nay, đã có 09 trong số 22 Bộ, cơ quan và tất cả các tỉnh, thành phố kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia (DVCQG) tại địa chỉ https://dichvucong.gov.vn[4]. Tính đến tháng 7/2020, Cổng DVCQG đã có 8 nhóm dịch vụ công, tích hợp, cung cấp 750 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 359 dịch vụ công dành cho người dân, 414 dịch vụ công dành cho doanh nghiệp; hơn 49,6 triệu lượt truy cập, hơn 11,2 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, hơn 189.000 tài khoản đăng ký, trong đó trên 186.000 tài khoản của nhân dân, hơn 176.000 hồ sơ thực hiện trực tuyến từ Cổng, tiếp nhận, xử lý hơn 6.900 phản ánh, kiến nghị và hỗ trợ, giải đáp hơn 16.600 cuộc gọi.
Hiện tại, 63/63 tỉnh, thành phố và 19/30 Bộ, ngành đã công khai tiến độ xử lý hồ sơ trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ[6]. Văn phòng Chính phủ cũng công khai việc xử lý văn bản của lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ. Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong tổng số 83 dịch vụ công trực tuyến giao cho 20 Bộ, ngành, đến nay, các Bộ, ngành đã triển khai thực hiện 78/83 dịch vụ công trực tuyến; trong tổng số 44 dịch vụ công trực tuyến giao cho các địa phương, đến nay có 32/63 địa phương đã triển khai thực hiện…
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế nhất định: Theo khảo sát, 31% doanh nghiệp cho biết thường xuyên tra cứu thông tin trên website của các cơ quan nhà nước năm 2018 (tăng 1% so với năm trước), 62% doanh nghiệp thỉnh thoảng mới tra cứu và đặc biệt vẫn còn tới 7% doanh nghiệp chưa bao giờ tra cứu các thông tin này. Nhìn chung, các tỷ lệ này trong vài năm trở lại đây chưa có sự thay đổi lớn, điều đó phản ánh tính hiệu quả cũng như nhận thức về mức độ tiếp cận đối với hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước trong doanh nghiệp còn chưa thực sự tốt. Nhóm doanh nghiệp lớn vẫn luôn luôn có mức quan tâm tới thông tin trên website của các cơ quan nhà nước hơn so với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: 44% doanh nghiệp lớn có quan tâm tới các thông tin này, trong khi đó tỷ lệ ở doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ đạt 29%